Trả lời bạn xem truyền hình ngày 22/12/2020

Thứ 3, 22.12.2020 | 09:37:36
1,135 lượt xem

Câu 1. Ông Mai Văn Sang, trú tại xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn hỏi: Chính sách hỗ trợ đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời: 

Theo Nghị định số 80/2018/NĐ-CP của Chính phủsửa đổi Nghị định 147/2003/NĐ-CP về cai nghiện ma túy tự nguyện và Nghị định 135/2004/NĐ-CP về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thì chính sách hỗ trợ với người cai nghiện ma túy tự nguyện được quy định cụ thể như sau:

- Nhà nước bảo đảm tiền thuốc cắt cơn, giải độc, điều trị rối loạn tâm thần cho người cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện ma túy công lập;

- Nhà nước hỗ trợ 95% chi phí sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện, thực hiện các dịch vụ xét nghiệm; điều trị nhiễm trùng cơ hội đối với thương binh, người nghèo, người cao tuổi cô đơn, trẻ mồ côi; người nhiễm chất độc hóa học…

- Địa phương hỗ trợ tiền ăn hàng tháng, tiền mặc, đồ dùng sinh hoạt ít nhất bằng 70% định mức đối với người nghiện ma túy bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…

Riêng đối người cai nghiện ma túy tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện ma túy ngoài công lập vẫn được hưởng các chính sách hỗ trợ trên từ năm 2018 đến năm 2020. 

Thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện

- Thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện tối thiểu là 06 tháng, gồm: Điều trị cắt cơn, giải độc và phục hồi sức khỏe; giáo dục, phục hồi hành vi, nhân cách; lao động trị liệu, tư vấn hướng nghiệp, dạy nghề, chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng; phòng, chống tái nghiện.

- Thời gian điều trị cắt cơn, giải độc, điều trị rối loạn tâm thần và phục hồi sức khỏe tối thiểu là 20 ngày.

Câu 2. Ông Chu Văn Thái, trú tại xã Hoàng Việt, huyện Văn Lãng hỏi: Việc xử lý hình sự đối với tội làm nhục người khác và tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Theo Điều 155 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội làm nhục người khác như sau:

“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Đối với 02 người trở lên;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Đối với người đang thi hành công vụ;

đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%...”

Theo đó, người phạm tội phải là người có hành vi (hành động) được thể hiện bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, như: lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, lột quần áo giữa đám đông người, thỏa mãn thú vui xác thịt…

Để làm nhục, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực như bắt trói, tra khảo, vật lột, đấm đá… nhưng tất cả các hành vi, thủ đoạn đó chỉ nhằm mục đích là làm nhục chứ không nhằm mục đích khác.

Tuy nhiên, nếu hành vi đó cấu thành một tội riêng thì tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện. Mức độ của các hành vi làm nhục người khác trên phải là xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác, nghĩa là hành vi nêu trên phải gây ra những ảnh hưởng xấu ở mức độ nhất định đến nhân phẩm, danh dự của người bị hại (như lột trần truồng người bị hại ở chỗ đông người, cạo đầu bôi vôi phụ nữ…) thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.

Bên cạnh đó, Điều 157 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật như sau:

“1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với người đang thi hành công vụ;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%...”

Theo đó, đối với tội bắt người trái pháp luật: người phạm tội (người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc bắt người khác) có hành vi khống chế người khác để tạm giữ hoặc tạm giam họ. Việc khống chế này có thể dùng vũ lực hoặc các biện pháp khác nhau như trói, còng tay… (sau đó thường là người bị hại bị dẫn về nơi nhất định để tạm giữ hoặc tạm giam);

- Đối với tội giữ (tạm giữ) người trái pháp luật: người phạm tội (người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc giữ người khác) có hành vi không cho người bị bắt đi đâu vượt ra ngoài sự kiểm soát của người phạm tội (như bắt ở trong nhà, bắt ngồi tại chỗ…) trong một thời gian ngắn (thường là dưới 24 giờ).

- Đối với tội giam (tạm giam) người trái pháp luật: người phạm tội (người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc giam người khác) có hành vi nhốt, giam người bị bắt vào một nơi trong một thời gian nhất định (như nhốt, giam ở trong buồng, trong nhà…).

Ngoài ra, nếu việc bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà có dùng vũ lực dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người bị hại thì người có hành vi nêu trên còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm)

Nhắn tin: trong tuần vừa qua chúng tôi cũng đã nhận được đơn thư của những ông (bà) có tên sau:

1. Ông Phan Bách Thắng, trú tại khối 8, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn khiếu nại về việc cố tình gây khó khăn cho người dân trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong nội dung đơn của ông, phần nơi gửi đã gửi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết là UBND thành phố Lạng Sơn.

2. Đơn của ông Đàm Văn Tươi, trú tại xã Thiện Thuật, huyện Bình Gia khiếu nại về việc không đồng ý với bản án sơ thẩm về việc giải quyết tranh chấp đất rừng. Vụ kiện đã được Tòa án án nhân huyện Bình Gia xét xử, nếu không đồng ý với bản án ông có quyền kháng cáo đền nghị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật./. 

  • Từ khóa